Đánh giá thực trạng công tác xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai và đề xuất mô hình chuẩn hóa, lưu trữ và chia sẻ dữ liệu địa chính trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng
http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/60974
Những năm qua, công tác theo dõi, quản lý biến động đất đai ở các địa phương chưa thực hiện theo đúng quy định, hầu hết hồ sơ đều được quản lý như đăng ký ban đầu, các biến động trong quá trình sử dụng đất không được cập nhật đồng bộ lên hồ sơ địa chính (bản đồ địa chính, sổ địa chính, sổ mục kê đất đai). Công tác cấp GCN được thực hiện với quy trình khá đa dạng, đặc biệt là vấn đề sử dụng nhiều nền bản đồ trong quá trình cấp GCN. Đây là khó khăn rất lớn đặt ra đối với việc xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai Mặt khác, cơ sở dữ liệu đất đai sau khi xây dựng xong và đưa vào vận hành đã bộc lộ một số vấn đề sau: - Trong quá trình cập nhật thường xuyên vào cơ sở dữ liệu, thường phát sinh một số lỗi dữ liệu do cán bộ chuyên môn thao tác; - Cơ sở dữ liệu xuất hiện những vấn đề về cấu trúc và dư thừa dữ liệu. Nguyên nhân là do công tác xây dựng cơ sở dữ liệu hoặc do chuyển đổi dữ liệu theo yêu cầu của chuẩn dữ liệu theo thời gian; - Hệ thống bản đồ địa chính số lưu trữ trên phần mềm Microstation (*.DGN) vẫn được sử dụng thường xuyên và song song với quá trình vận hành dữ liệu không gian trong cơ sở dữ liệu. Vì vậy, cũng cần phải có giải pháp cho việc chia sẻ dữ liệu này để sử dụng chung;
Những năm qua, công tác theo dõi, quản lý biến động đất đai ở các địa phương chưa thực hiện theo đúng quy định, hầu hết hồ sơ đều được quản lý như đăng ký ban đầu, các biến động trong quá trình sử dụng đất không được cập nhật đồng bộ lên hồ sơ địa chính (bản đồ địa chính, sổ địa chính, sổ mục kê đất đai). Công tác cấp GCN được thực hiện với quy trình khá đa dạng, đặc biệt là vấn đề sử dụng nhiều nền bản đồ trong quá trình cấp GCN. Đây là khó khăn rất lớn đặt ra đối với việc xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai Mặt khác, cơ sở dữ liệu đất đai sau khi xây dựng xong và đưa vào vận hành đã bộc lộ một số vấn đề sau: - Trong quá trình cập nhật thường xuyên vào cơ sở dữ liệu, thường phát sinh một số lỗi dữ liệu do cán bộ chuyên môn thao tác; - Cơ sở dữ liệu xuất hiện những vấn đề về cấu trúc và dư thừa dữ liệu. Nguyên nhân là do công tác xây dựng cơ sở dữ liệu hoặc do chuyển đổi dữ liệu theo yêu cầu của chuẩn dữ liệu theo thời gian; - Hệ thống bản đồ địa chính số lưu trữ trên phần mềm Microstation (*.DGN) vẫn được sử dụng thường xuyên và song song với quá trình vận hành dữ liệu không gian trong cơ sở dữ liệu. Vì vậy, cũng cần phải có giải pháp cho việc chia sẻ dữ liệu này để sử dụng chung;
Title: | Đánh giá thực trạng công tác xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai và đề xuất mô hình chuẩn hóa, lưu trữ và chia sẻ dữ liệu địa chính trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng : Luận văn ThS. Kiểm soát và bảo vệ môi trường: 608501 |
Authors: | Phạm, Hồng Thắng |
Keywords: | Đất;Địa chính |
Issue Date: | 2017 |
Publisher: | H.: Trường Đại học khoa họcTự nhiên |
Abstract: | Những năm qua, công tác theo dõi, quản lý biến động đất đai ở các địa phương chưa thực hiện theo đúng quy định, hầu hết hồ sơ đều được quản lý như đăng ký ban đầu, các biến động trong quá trình sử dụng đất không được cập nhật đồng bộ lên hồ sơ địa chính (bản đồ địa chính, sổ địa chính, sổ mục kê đất đai). Công tác cấp GCN được thực hiện với quy trình khá đa dạng, đặc biệt là vấn đề sử dụng nhiều nền bản đồ trong quá trình cấp GCN. Đây là khó khăn rất lớn đặt ra đối với việc xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai Mặt khác, cơ sở dữ liệu đất đai sau khi xây dựng xong và đưa vào vận hành đã bộc lộ một số vấn đề sau: - Trong quá trình cập nhật thường xuyên vào cơ sở dữ liệu, thường phát sinh một số lỗi dữ liệu do cán bộ chuyên môn thao tác; - Cơ sở dữ liệu xuất hiện những vấn đề về cấu trúc và dư thừa dữ liệu. Nguyên nhân là do công tác xây dựng cơ sở dữ liệu hoặc do chuyển đổi dữ liệu theo yêu cầu của chuẩn dữ liệu theo thời gian; - Hệ thống bản đồ địa chính số lưu trữ trên phần mềm Microstation (*.DGN) vẫn được sử dụng thường xuyên và song song với quá trình vận hành dữ liệu không gian trong cơ sở dữ liệu. Vì vậy, cũng cần phải có giải pháp cho việc chia sẻ dữ liệu này để sử dụng chung; |
Description: | 78 tr. |
URI: | http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/60974 |
Appears in Collections: | HUS - Master Theses |
Nhận xét
Đăng nhận xét